Tháng 6 - mùa thi, nơi mở ra những ngã rẽ cuộc đời biết bao con người. Đi tiếp con đường đã hoạch định hay bất ngờ ngoặt sang một lối khác đầy mới lạ. Thậm chí dừng hẳn con đường học vấn để sớm bước vào đường mưu sinh đầy khó khăn phía trước? Không hẳn, bởi học không bao giờ thừa, học không nhất thiết chỉ ngồi trên ghế nhà trường.
Không thể phủ định việc nếu luôn khát khao học tập, đâu cũng có thể là trường lớp, ai cũng có thể là thầy cô của chúng ta. Và, thi chỉ là một trong những sự kiện nhất thời trên bước đường học tập của mỗi người. Còn kiến thức và sự vận dụng kiến thức vào đời sống thực tế mới là điều tối quan trọng.
Thủa học lớp 12, chuẩn bị thi vào đại học, hầu hết lứa học sinh chúng tôi khi ấy không biết mình muốn gì, khả năng học tập đến đâu. Bố mẹ và người thân cũng không có nhiều thông tin để định hướng cho con em mình trong bước đường sắp tới. Vậy là đại đa số chúng tôi chọn trường thi theo… phong trào hoặc sự rủ rê của bè bạn chứ không hề căn cứ vào năng lực bản thân. Ngành nghề đào tạo ấy có phù hợp hay không càng không phải là vấn đề quan trọng. Thế mới có chuyện, có những thời điểm, có tới 70-80% số sinh viên đại học ở Việt Nam đi làm trái nghề sau tốt nghiệp.
Giờ đây, ngay khi mới chập chững bước vào lớp 1, nhiều học sinh đã được bố mẹ ngắm sẵn vào một trường cấp 2 (THCS) điểm của địa phương. Để thực hiện mục tiêu “5 năm lần thứ nhất” đó, các bậc phụ huynh không quản công sức, không ngại tốn kém tiền bạc, cho con học thêm kín toàn bộ các ngày trong tuần với quan điểm không thể để con mình kém con nhà người ta. Vậy là 5 năm tuổi thơ cấp 1 (Tiểu học) qua đi nhanh chóng trong triền miên những buổi học chính, học phụ.
Bước vào năm đầu cấp 2, lập tức phần lớn các em phải bắt tay ngay vào kế hoạch “4 năm lần thứ 2” để hướng tới một trường cấp 3 (THPT) công lập có uy tín trên địa bàn, nếu là trường chuyên thì khỏi phải nói niềm tự hào của cha mẹ cao đến đâu so với bạn bè, đồng nghiệp, hàng xóm láng giềng. Do đó, lịch trình 4 năm cấp 2 không khác gì 5 năm cấp 1. Học sinh gần như không phải làm bất cứ việc gì khác ngoài học và học. Còn lại đã có bố mẹ lo.
Vượt qua được cửa ải lớp 9, đa số các em năm đầu cấp 3 lúc này đã quá quen với sự học nên không còn bỡ ngỡ gì với lịch học y như suốt 9 năm trước. Thậm chí nếu bố mẹ tỏ ra thiếu quan tâm, nhiều em còn chủ động xin đi học thêm cho bằng bạn bằng bè. Bởi, đã học đến mức này rồi, đặt chân vào một mái trường đại học nào đó là ước mơ chính đáng của bất kỳ ai…

Thí sinh thi vào lớp 10 Trường THPT Chuyên Vĩnh Phúc năm học 2024-2025 tại điểm thi Trường THPT Nguyễn Thái Học (Vĩnh Yên).
Quay trở lại chuyện của chúng tôi thời trước, cái thời mọi khó khăn còn bủa vây tứ phía, từ cái ăn, cái mặc đến việc cập nhật thông tin, khi ấy, việc học và thi hồn nhiên lắm. Thi đậu thì học tiếp đã đành, thi trượt cũng vô tư đi học ngành nghề khác hoặc đơn giản là bước ngay vào đời làm đủ mọi nghề kiếm sống. Chính vì vậy, cái mà bây giờ được gọi là “kỹ năng sống”, lứa chúng tôi khi đó có thừa. Tất nhiên kèm theo đó là thừa khó khăn, vất vả, thừa… thiếu thốn.
Tất nhiên, nhờ “kỹ năng sống” sẵn có, phần lớn những trường hợp đi làm trái ngành nghề đào tạo vẫn thích ứng nhanh, thích ứng tốt với môi trường làm việc mới, nhiều người còn nhanh chóng khẳng định được bản thân và phát triển vững chắc trên con đường chính trị hoặc làm kinh tế.
Hiện tại, dường như sự học được một bộ phận dân chúng đặt lên cao quá, đến mức “thần thánh hóa” nó, cho rằng con người không học hành thì không làm được bất cứ việc gì cả. Người xưa nói “Nhân bất học bất tri lý” nghĩa là người không học không biết đạo lý, không biết phải trái chứ không hề nói không học không biết làm gì. Người xưa cũng không trói buộc con người ta học là phải ngồi trên ghế nhà trường mà ngược lại, khuyến khích con người nên coi bất kỳ ai khác cũng là thầy mình, hay thì học theo, dở thì học tránh.
Việc thần thánh hóa học tập để lại nhiều hệ lụy. Từ bệnh thành tích dẫn đến sự dối trá trong việc dạy và học cho đến tuổi thơ học sinh bị “đánh cắp”. Từ việc coi điểm số trên hết dẫn đến kỹ năng sống chỉ là con số không khiến việc hòa nhập với đời sống thực tế gặp vô vàn khó khăn. Đáng buồn hơn, không ít em không chịu nổi áp lực đã trở nên trầm cảm, tâm thần, thậm chí chọn con đường rời bỏ cuộc sống, để lại gánh nặng cho xã hội và nỗi đau đớn, ân hận khôn nguôi cho người ở lại.
Đã đến lúc phải thẳng thắn thừa nhận, dù việc học là rất đáng hoan nghênh nhưng học không phải là con đường duy nhất đưa ta đến cuộc sống tương lai tốt đẹp. Ta có thể không phù hợp học môn này nhưng hoàn toàn có thể giỏi môn khác, không phù hợp thời điểm này nhưng lại rất thuận lợi ở thời điểm khác. Đặc biệt, ta có thể không học trường chuyên, lớp chọn hay trường đại học nào đó uy tín nhưng ta hoàn toàn có thể vừa học vừa làm để có một nghề thật giỏi, đồng thời vẫn có một số vốn kiến thức nhất định đủ để hòa hợp với đời sống thường nhật.
Học đến đâu, học như thế nào, học để làm gì tùy thuộc vào điều kiện và năng lực của mỗi cá nhân và gia đình cá nhân đó. Không thể vì phong trào hay vì niềm tự tôn, kiêu hãnh thái quá của các bậc phụ huynh mà đẩy con em mình vào con đường… bị học, phải học. Khi đó, lấy đâu ra cảnh “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Và hậu quả nhãn tiền là sẽ sản sinh ra một lớp những người “sáng cắp ô đi, tối cắp về”.
Quang Nam