Những việc làm thiết thực như lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra; tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức bảo vệ nguồn nước trong cộng đồng trước tình trạng ô nhiễm và suy thoái... đã và đang được cả hệ thống chính trị của tỉnh vào cuộc quyết liệt. Từ đó góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực đến chất lượng nguồn nước.
Vĩnh Phúc có hệ thống sông, suối, hồ, ao, đầm khá dày đặc với 4 con sông chính chảy qua, đảm bảo cung cấp đủ nước tưới cho 38.200 ha đất canh tác nông nghiệp trên toàn tỉnh.
Hồ Vân Trục thường xuyên được nạo vét, khơi thông dòng chảy. Ảnh: Nguyễn Lượng
Bên cạnh đó, hệ thống hồ lớn chứa hàng triệu m3 nước như Đại Lải, Thanh Lanh, Đầm Vạc, Vân Trục… tạo nên nguồn dự trữ nước mặt phong phú, đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động phát triển KT-XH của tỉnh. Nguồn nước ngầm có chất lượng khá tốt với tổng khối lượng 111,2 triệu m3.
Những năm gần đây, tốc độ phát triển KT-XH mạnh mẽ của tỉnh dẫn đến việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước ngày càng nhiều, lượng nước thải ra các sông, ngòi, ao, hồ… tăng nhanh, kéo theo mức độ rủi ro ô nhiễm nguồn nước.
Nhằm gắn với trách nhiệm của các cấp, ngành và người dân trong công tác ngăn ngừa, hạn chế tình trạng suy thoái, ô nhiễm và bảo vệ môi trường (BVMT) nguồn nước, tỉnh ban hành nhiều kế hoạch, đề án, quyết định như Đề án BVMT lưu vực sông trên địa bàn tỉnh đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; các quyết định phê duyệt danh mục khu vực phải đăng ký khai thác nước dưới đất, danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất và vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh.
Tích cực chỉ đạo các sở, ngành, đơn vị tổ chức cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước, cắm mốc phạm vi bảo vệ hồ chứa nước, hồ thủy lợi như hồ Thanh Lanh, Đại Lải, Vân Trục, Bò Lạc...
UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho các sở, ngành liên quan tích cực thanh tra, kiểm tra, lấy mẫu nước mặt, giám sát việc quản lý, sử dụng nguồn nước để kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư trong việc thực thi hiệu quả các hoạt động bảo vệ nguồn nước.
Trên địa bàn huyện Lập Thạch hiện có 8 xã, thị trấn thuộc danh mục vùng hạn chế khai thác nước dưới đất với tổng diện tích 59,35km2; 190 ao, hồ, đầm thuộc danh mục không được phép san lấp; 25/28 thủy vực đã hoàn thành việc cải tạo, nạo vét, tiếp nhận nước thải trong khu dân cư.
Nhằm đảm bảo sự ổn định của bờ và phòng, chống lấn chiếm đất ven nguồn nước, UBND huyện còn ban hành kế hoạch cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước cho 30/141 ao, hồ, đầm trên địa bàn.
Đồng thời phối hợp với các cơ quan liên quan thanh tra, kiểm tra, xử lý các hoạt động gây ô nhiễm nguồn nước mặt của cá nhân, tổ chức.
Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức và hành động của các cấp, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp, nhân dân cùng tham gia bảo vệ nguồn nước bằng những việc làm cụ thể, thiết thực.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc BVMT nguồn nước, cấp ủy Đảng, chính quyền xã Tử Du (Lập Thạch) tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm đầu tư nguồn lực, hoàn thành việc cải tạo, nạo vét bùn thải hồ Cầu Cận và hồ Cầu Vắp với tổng vốn đầu tư hơn 6 tỷ đồng để giải quyết tình trạng ô nhiễm nguồn nước tại các khu dân cư trên địa bàn.
Đồng thời đặt biển cảnh báo nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm của người dân về giữ gìn, BVMT; tăng cường giám sát cộng đồng nhằm kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, gây ô nhiễm nguồn nước.
Hồ Cầu Cận được đầu tư xây dựng bờ kè, lan can, lưới chắn rác. Ảnh: Nguyễn Lượng
Ông Trần Văn Triểu, Trưởng thôn Khâu, xã Tử Du cho biết: Hồ Cầu Cận vốn là nơi cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp của người dân trong thôn. Thời gian qua, hồ không chỉ được cải tạo, nạo vét bùn thải nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường mà còn được đầu tư hạng mục bờ kè, lan can bao quanh, lưới chắn rác…
Để BVMT nước và tạo điểm nhấn cảnh quan trong khu dân cư, thôn huy động sự vào cuộc của các tầng lớp nhân dân trong việc trồng, chăm sóc và bảo vệ tuyến đường hoa xung quanh hồ; thường xuyên vệ sinh lưới chắn rác trong lòng hồ; tích cực bảo vệ nguồn nước và môi trường xung quanh.
Phấn đấu đến năm 2030, Vĩnh Phúc cơ bản chủ động được nguồn nước, phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo ngành chuyên môn ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thi hành chi tiết một số điều của Luật Tài nguyên nước.
Xây dựng cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các thành phần của xã hội tham gia vào công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước.
Hoàn thiện, vận hành ổn định, có hiệu quả hệ thống quan trắc, cảnh báo, dự báo tài nguyên nước; giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước trên nền tảng công nghệ số.
Tăng cường thanh tra, kiểm tra hoạt động khai thác tài nguyên nước, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng dân cư trong việc giám sát, bảo vệ nguồn nước.
Từ đó phát huy nguồn lực tài nguyên nước trong tầm nhìn dài hạn, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh trong giai đoạn mới.
Ngọc Lan