Bài 3: Góc nhìn quốc tế về những thành tựu của Việt Nam (Tiếp theo và hết)
Con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ngày càng tỏ rõ tính ưu việt và chứng minh sức sống, sức phát triển mạnh mẽ. Điều này đã được nhiều học giả, chính khách quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận.
Đường lối đối ngoại rộng mở góp phần khẳng định vị thế Việt Nam
Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì thế, có rất nhiều nước, trong đó có các cường quốc hàng đầu trên thế giới, muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và đối tác đặc biệt với Việt Nam.
Tính đến tháng 9-2023, ngoài 3 quốc gia thiết lập quan hệ đặc biệt với Việt Nam là Lào, Campuchia và Cuba, có 12 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam, gồm: Nam Phi, Chile, Brazil, Venezuela, Argentina, Ukraine, Đan Mạch, Myanmar, Canada, Hungary, Brunei và Hà Lan.
Ảnh minh họa: Tạp chí Lý luận chính trị
Ở mức đối tác cao hơn, có 13 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, gồm: Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Đức, Italy, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp, Malaysia, Philippines, Australia, New Zealand. Ở mức độ đối tác cao nhất có 5 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ.
Việc Hoa Kỳ từng là quốc gia cựu thù với Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài 30 năm, cũng là nước đứng đầu thế giới tư bản công nhận thể chế chính trị của nước ta, ủng hộ một nước Việt Nam mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường để thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là hợp tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau và sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực, cùng mang lại lợi ích chiến lược cho cả hai bên.
Kể từ khi đổi mới, Việt Nam không chỉ chủ động hội nhập quốc tế mà còn đóng góp nhiều sáng kiến để hóa giải các vấn đề toàn cầu. Là thành viên tích cực và chủ động, Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và được quốc tế đánh giá cao. Ông Kamal Malhotra, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022, nhận định: "Nếu chúng ta nói về những kết quả trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam có thể tự hào khi đứng trong hàng ngũ các nước đi đầu thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc. Việt Nam cam kết mạnh mẽ để không ai bị bỏ lại phía sau". Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đánh giá: Việt Nam luôn là đối tác mạnh nhất của Liên hợp quốc kể từ khi gia nhập năm 1977; vai trò đầu tàu trong việc đạt được các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là nền tảng vững chắc giúp Việt Nam triển khai Chương trình phát triển bền vững 2030. Việt Nam đã và đang có những đóng góp quan trọng trong việc ủng hộ hòa bình bền vững.
Nhận được sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu ủng hộ cao nhất trong số 14 nước thành viên mới (184/192). Tiếp đến, ngày 11-10-2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Ngày 7-6-2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Với 15 thành viên, trong đó có 10 thành viên không thường trực, Hội đồng Bảo an là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tiếp theo nhiệm kỳ đầu tiên của Việt Nam trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008-2009, năm 2019 là lần thứ hai Việt Nam được bầu làm thành viên của cơ quan quyền lực cao nhất này của Liên hợp quốc.
Thành tựu của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận
Uy tín Việt Nam có được là nhờ những thành tựu của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Các chuyên gia thuộc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) nhận định: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và có nhiều tác động khó lường, ảnh hưởng lớn đến kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo trên toàn cầu, việc Việt Nam vẫn duy trì được vị trí trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới là một nỗ lực rất lớn, đồng thời là tấm gương cho các nước đang phát triển khác. Theo Báo cáo về xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2021, Việt Nam được xếp thứ 44/132 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam là tấm gương cho các nước đang phát triển khác trong việc coi đổi mới sáng tạo là một ưu tiên quốc gia.
Nhiều hãng truyền thông quốc tế như AP, Reuters, Bloomberg, Global Times... khi đưa tin về Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã ca ngợi thành công về kinh tế và khả năng của Việt Nam ứng phó với đại dịch Covid-19, trở thành hình mẫu của thế giới về phòng, chống đại dịch và là điểm sáng của phát triển kinh tế khu vực châu Á với GDP năm 2020 đạt mức tăng trưởng 2,91% trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới lâm vào suy thoái. Báo Times Kuwait nhận định: “Việt Nam được biết đến là một quốc gia an toàn và chỉ số về an ninh con người đang được cải thiện. Với sự ổn định về chính trị, người dân Việt Nam tin tưởng vào hệ thống chính trị và các cấp lãnh đạo của Đảng, do đó các quyết sách quan trọng của Đảng thường được người dân Việt Nam hoàn toàn ủng hộ”.
Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá: “Với nền kinh tế ngày càng mở, đa dạng và đầu tư lớn vào nghiên cứu và phát triển, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế số, Việt Nam là đối tác quan trọng trên mọi lĩnh vực, là nền kinh tế năng động, có môi trường đầu tư thân thiện, hệ thống chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác đối ngoại và là nhân tố quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế”. Trang tin focus1.kr (Hàn Quốc) cho rằng: “Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu mốc lớn trong quá trình phát triển của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng tương lai phát triển của đất nước”.
Giáo sư Alexander Sokolovsky tại Khoa Châu Á-Thái Bình Dương, thuộc Viện Phương Đông của Đại học Viễn Đông (Nga) nhận định: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là Đảng của nhân dân, vì nhân dân, luôn biết lắng nghe mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Đảng đã kịp thời đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể từ Đại hội lần thứ VI đến nay. Trong thế giới toàn cầu hiện đại, Việt Nam đã vươn tầm khỏi biên giới khu vực Đông Nam Á và tự tin bước trên con đường hợp tác quốc tế với tất cả các nước trên thế giới.
Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đến năm 2025, Việt Nam sẽ vượt qua Philippines và Singapore vươn lên đứng thứ ba Đông Nam Á với GDP hơn 571 tỷ USD. Trong vòng hai thập kỷ, Việt Nam đã thực sự đổi mới thành công, trở thành công xưởng sản xuất đang lên của thế giới. Ngân hàng HSBC nhận định, với xuất phát điểm chỉ là một nước xuất khẩu hàng may mặc và da giày có giá trị gia tăng thấp, đến nay Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất quan trọng trong lĩnh vực công nghệ. Tờ The Diplomat nhận định: “Việt Nam đã phát triển từ một trong những nền kinh tế "nhỏ nhất" trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Năm 1986, khi bắt đầu đổi mới, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam lên tới 378% và Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất trong khu vực với tỷ lệ người nghèo hơn 70%. Đến năm 2020, lạm phát xuống mức 4%, tỷ lệ người nghèo còn 5%. Nhờ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt trận kinh tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 10 lần, từ dưới 300USD vào thập niên 1980 lên 2.800USD vào năm 2020.
Nhìn lại toàn bộ sự phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có thể hoàn toàn tự tin khẳng định: Đường lối cách mạng của Đảng nhằm đưa Việt Nam phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, vừa phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại trong kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là đóng góp thực tiễn và lý luận có ý nghĩa rất quan trọng của Đảng ta vào hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học trên thế giới.
Tạ Ngọc (Theo qdnd.vn)