Hướng tới mục tiêu trở thành tỉnh công nghiệp phát triển và là một trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước về công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, sản xuất ô tô, xe máy..., cùng với việc ban hành nhiều cơ chế, chính sách đầu tư thông thoáng, tỉnh yêu cầu các sở, ban, ngành trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, hỗ trợ pháp lý cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác quản lý Nhà nước trong các khu công nghiệp (KCN).
Cán bộ Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh hướng dẫn đại diện doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính tại Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh. Ảnh: Chu Kiều
Trên địa bàn tỉnh hiện có 16 KCN được thành lập, trong đó, có 9 KCN đã đi vào hoạt động. Theo Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trước mắt, đến năm 2030, Vĩnh Phúc sẽ phát triển lên 24 KCN, quy mô 7.000 ha.
Để đạt mục tiêu đề ra và tăng tỷ lệ lấp đầy các KCN trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, phức tạp, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam, tỉnh tiếp tục đề ra nhiều giải pháp thu hút thêm các nhà đầu tư FDI mới, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về các KCN, tạo sự phát triển bền vững.
Theo đó, nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu về cơ sở hạ tầng cho các doanh nghiệp, các dự án mới, đặc biệt là các dự án quy mô lớn, công nghệ hiện đại, đảm bảo phù hợp với nội dung phát triển các KCN trong Quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, thời gian qua, Ban Quản lý các KCN tỉnh tích cực phối hợp với các ngành, địa phương, đơn vị liên quan tham mưu UBND tỉnh rà soát, bổ sung các KCN mới tích hợp vào Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; hỗ trợ các doanh nghiệp, nhà đầu tư trong quá trình tìm hiểu môi trường đầu tư, kinh doanh cũng như quá trình thực hiện dự án; kịp thời giải quyết khó khăn, vướng mắc, tạo sự hài hòa, ổn định quan hệ lao động trong các doanh nghiệp...
Từ đầu năm 2024 đến nay, Ban Quản lý các KCN đã phối hợp cùng các sở, ngành, UBND các huyện, thành phố và đơn vị liên quan tham mưu UBND tỉnh điều chỉnh quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 KCN Sơn Lôi (lần 1); hướng dẫn, hỗ trợ Công ty TNHH G.S Việt Nam thực hiện các thủ tục điều chỉnh dự án đầu tư, kiến nghị nhà đầu tư tính toán phương án đầu tư, có biện pháp về bổ sung tài chính để bảo đảm dự án khả thi và tiếp tục vận hành, tránh rủi ro về tài chính; cấp mới 18 giấy phép xây dựng...
Đồng thời tích cực rút ngắn thời gian thẩm định được quy định tại quy trình thủ tục hành chính (TTHC) trong việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; thẩm định thiết kế xây dựng triển khai sau thiết kế cơ sở, cấp phép xây dựng...
Được sự hỗ trợ từ Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh, KCN Thăng Long Vĩnh Phúc nhanh chóng đi vào hoạt động với hạ tầng đồng bộ, thúc đẩy ngành công nghiệp của tỉnh phát triển theo hướng hiện đại. Ảnh: Chu Kiều
Nhờ đó, 6 tháng đầu năm, Ban cấp mới Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 29 dự án, điều chỉnh tăng vốn 23 dự án; tỷ lệ giải quyết TTHC trước hạn đạt 81%. Hiện có 492 dự án còn hiệu lực đầu tư trong các KCN, gồm 117 dự án DDI với tổng vốn đầu tư hơn 36.603 tỷ đồng và 375 dự án FDI với tổng vốn đầu tư gần 6,7 tỷ USD.
Tiếp tục đưa Vĩnh Phúc là "bến đỗ", điểm đến đầu tư an toàn, hấp dẫn, UBND tỉnh yêu cầu các sở, ngành chức năng, chính quyền địa phương bám sát chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước về các KCN trên địa bàn.
Giao Ban Quản lý các KCN tỉnh nghiên cứu, tham mưu về định hướng cụ thể số lượng các KCN phát triển theo loại hình công nghiệp mới trên địa bàn tỉnh (KCN hỗ trợ, KCN chuyên ngành, KCN công nghệ cao...); tăng cường việc hướng dẫn, hỗ trợ, đồng hành cùng nhà đầu tư hạ tầng KCN trong việc đề xuất các dự án KCN theo loại hình mới, hướng đến cân bằng các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả phát triển của các KCN.
Trong quá trình tham mưu văn bản tham gia ý kiến thẩm định các hồ sơ dự án KCN, cần đảm bảo tính khả thi của dự án, đặc biệt là việc làm rõ sự phù hợp của chỉ tiêu đất KCN, về chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa, mục đích sử dụng rừng, khả năng đáp ứng các điều kiện đầu tư hạ tầng KCN, đánh giá năng lực của nhà đầu tư để đảm bảo việc đáp ứng điều kiện giao đất, cho thuê đất theo quy định.
Kiểm tra, giám sát các chủ đầu tư hạ tầng KCN thực hiện đúng tiến độ đầu tư xây dựng, đảm bảo chất lượng, kết cấu hạ tầng KCN, tuân thủ quy hoạch, tiêu chuẩn, quy chuẩn về xây dựng, môi trường theo quy định của pháp luật...
Lưu Nhung