Trần Nguyên Hãn thuộc dòng dõi, tôn thất nhà Trần. Ông là cháu nội quan Đại Tư đồ Trần Nguyên Đán, cháu bảy đời Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải, và là con cô, con cậu với Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi. Ông sinh ra và lớn lên ở trang Sơn Đông, huyện Lập Thạch, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (nay là xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) - một vùng đất giàu truyền thống văn hiến: Ngay từ giữa thế kỷ XIII, nhờ có thầy giáo Đỗ Khắc Chung về làng dạy học, lễ nghĩa, văn hóa, giáo dục ở vùng đất này rất phát triển. Đầu thế kỷ XV, tại vùng đất đã có rất nhiều thầy giỏi. Tuổi thiếu niên của Trần Nguyên Hãn may mắn được sống trong môi trường văn hóa, giáo dục đó.
Có thể nói, truyền thống gia đình trâm anh thế phiệt, lại may mắn được lớn lên ở vùng quê văn hiến, tôn trọng sự học, nhiều thầy giỏi, là hai yếu tố cơ bản quyết định hình thành nên nhân cách, tài năng của Trần Nguyên Hãn.
Lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, cha mất sớm, nhân dân sống lầm than, khổ cực…, ông nhanh chóng ý thức được trách nhiệm của người làm trai thời loạn: Yêu nước, thương dân, căm thù lũ giặc tàn ác. Từ đó, nuôi dưỡng trí lớn: Phục quốc, giành lại giang sơn gấm vóc từ tay giặc Minh, đem lại nền thái bình cho dân tộc Việt. Tuổi thơ của Trần Nguyên Hãn lớn lên trong nghèo khó, nhưng miệt mài học tập để tự hoàn thiện mình: Am hiểu tường tận kinh sử; trên thông thiên văn, dưới tường địa lý; nghiền ngẫm, dùi mài binh pháp; rèn luyện võ nghệ cao cường. Bài thơ Vịnh con Trai, Phiến đá mài gươm hiện vẫn ở cổng đền, và bao huyền tích, huyền thoại về ông còn tồn tại đến ngày nay, cho hậu thế chúng ta hiểu biết phần nào về tài năng, ý chí và nghị lực phi thường của bậc vĩ nhân!
Nuôi chí phục quốc, năm 20 tuổi, Trần Nguyên Hãn đã tập hợp được mấy trăm nghĩa binh trai tráng, cùng chí hướng trong vùng cùng nhau luyện tập võ nghệ, tích trữ lương thảo, diệt ác trừ gian. Năm 1415, ông dẫn đầu đoàn nghĩa binh đánh thành Tam Giang, giải phóng cả một vùng ngã ba sông Bạch Hạc rộng lớn, khiến quân Minh phải kinh hồn bạt vía, tiếng tăm nghĩa quân lừng lẫy khắp vùng.
Lúc bấy giờ, ở ngoài Bắc có rất nhiều cuộc khởi nghĩa nhằm đánh đuổi giặc Minh, khôi phục lại nhà Trần. Nhưng với tầm nhìn của bậc vĩ nhân, Trần Nguyên Hãn cùng Nguyễn Trãi lại đặt niềm tin thắng lợi vào cuộc khởi nghĩa của một Tù trưởng ở mãi vùng núi Lam Sơn, Thanh Hóa.
Từ bỏ lợi ích của cả một dòng họ lớn, trị vì nước Việt gần 200 năm, cùng hẹn với Nguyễn Trãi, cuối năm 1418, Trần Nguyên Hãn đem theo hơn 200 nghĩa quân tinh nhuệ của quê hương cùng hàng trăm ngựa chiến, vũ khí vào tụ hội với nghĩa quân Lam Sơn. Ông đã dâng Lê Lợi thanh bảo kiếm gia truyền của Tướng quốc Thái sư Trần Quang Khải để tỏ một lòng một dạ phò Lê Lợi làm minh chủ. Từ đây, Trần Nguyên Hãn cùng Nguyễn Trãi nằm trong bộ chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn. Dốc lòng vì nước, ông đã dâng Lê Lợi nhiều kế sách hay mang tầm chiến lược, giúp nghĩa quân nhanh chóng mở rộng địa bàn ra ngoài vùng núi, chuyển qua thời kỳ cầm cự và phản công.
Tháng 10/1424, Trần Nguyên Hãn được giao cầm quân đánh thành Thanh Hóa. Chiến dịch thắng lợi, ông đề xuất Lê Lợi tiếp tục mở rộng địa bàn về phía Nam. Chỉ trong năm 1425, cả một vùng giải phóng rộng lớn từ Thanh Hóa, Nghệ An vào đến Tân Bình, Thuân Hóa (Thừa Thiên- Huế ngày nay) đều về tay nghĩa quân. Binh lực nghĩa quân lên đến cả chục vạn người với vũ khí, lương thảo dồi dào.
Khi thế và lực đủ mạnh, nghĩa quân tiến quân ra Bắc. Trần Nguyên Hãn được cử thống lĩnh lực lượng thủy binh theo đường sông Đà, sông Hồng đánh vào phía Đông thành Đông Quan. Quân Vương Thông thua to, phải vội vã rút vào thành cố thủ, chờ viện binh.
Để đối phó với viện binh của quân Minh, Bộ chỉ huy nghĩa quân quyết định phải khẩn trương bao vây tiêu diệt quân Minh ở thành Xương Giang (thuộc tỉnh Bắc Giang ngày nay). Đây là cứ điểm trọng yếu trên đường tiến quân của địch, một thành lớn được phòng vệ chắc chắn, lương thực nhiều, binh lực mạnh.
Trần Nguyên Hãn được đích thân Lê Lợi phong chức Thái úy và cử làm Tổng chỉ huy chiến dịch quyết định này. Đêm mồng 8 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), trận đánh nổi tiếng do Trần Nguyên Hãn chỉ huy với kế hoạch thần diệu “nội công ngoại kích”, phối hợp các loại lực lượng, thần công, hỏa tiễn, giáo dài, nỏ cứng, bốn mặt cùng đánh. Chỉ sau một canh giờ, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt, các tướng giặc đều bị chết hoặc bị bắt.
Trận đánh thành Xương Giang có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nó trở thành trận đánh mang tính kinh điển trong nghệ thuật quân sự Việt Nam. Trong đó thể hiện ý chí quyết đoán, tài thao lược của vị tướng quân chỉ huy Trần Nguyên Hãn.
Thừa thắng, Lê Lợi họp các tướng lĩnh, quyết định giao Trần Nguyên Hãn cùng các tướng tiến quân lên biên giới đánh viện binh Liễu Thăng. Một lần nữa, Trần Nguyên Hãn lại thể hiện tài cầm quân xuất chúng của mình. Ông trực tiếp lên Lạng Sơn bố trí trận địa và vạch phương án phối hợp chiến đấu với các cánh quân, phục kích chờ quân Liễu Thăng tới. Ngày 20 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427), Liễu Thăng tự mình đốc thúc đạo quân tiên phong đánh ải Chi Lăng. Hai đạo quân của Trần Nguyên Hãn và tướng Lê Sát hợp đánh, chém được đầu Liễu Thăng tại núi Mã Yên. Chưa đầy một tháng sau, chiến dịch Diệt Viện kết thúc. Đạo quân 10 vạn tên của Liễu Thăng hầu hết bị diệt hoặc bị bắt. Sau chiến thắng Xương Giang, Chi Lăng, nghĩa quân Lam Sơn tiếp tục bao vây thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải đầu hàng, thông qua Hội thề Đông Quan, ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi (1427). Trong danh sách những người tham gia Hội thề Đông Quan do Lê Lợi dẫn đầu, tên Trần Nguyên Hãn đứng ở vị trí thứ 2 ngay sau chủ soái. Điều này chứng tỏ vai trò và công lao to lớn của Trần Nguyên Hãn trong cuộc chiến tranh giải phóng.
Ngày 18 tháng 3 năm Mậu Thân (1428), Trần Nguyên Hãn được phong chức “Tả tướng quốc, Bình chương quân quốc trọng sự” - chức quan cao nhất thời đó.
Tiếc thay, chính sự những năm đầu thời Lê Sơ có nhiều khó khăn; lòng dân Bắc Hà chưa quên nhà Trần; nhà Minh thua trận đau đớn nên luôn tìm mưu sâu, kế hiểm chia rẽ nội bộ Đại Việt!... Nhằm giữ mối đoàn kết trong nội bộ giới lãnh đạo cao cấp, yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để xây dựng đất nước cường thịnh, nhân dân được yên ổn làm ăn, đời sống ấm no, tránh họa binh đao… không màng danh lợi cá nhân, coi thường vinh hoa phú quý, Trần Nguyên Hãn đã chủ động xin Lê Lợi cho từ quan, về quê cày ruộng.
Trần Nguyên Hãn là vị tướng vừa có học thức, vừa tinh binh pháp, cầm quân đánh đâu thắng đó, lại có lòng yêu nước, thương dân nhất mực! Chính vì yêu nước, thương dân mà ông bỏ qua lợi ích của cả một Vương triều (bằng chứng là ông dứt khoát không theo các cuộc khởi nghĩa giành độc lập do chính các Vua Trần thời đó lãnh đạo); chính vì yêu nước, thương dân mà ông sẵn sàng bỏ qua vinh hoa phú quý mà mình xứng đáng được hưởng, sẵn sàng xin về nghỉ ở tuổi chưa đến bốn mươi, dù chỉ để tránh những điều phức tạp chốn quan trường! Thậm chí, chính vì yêu nước, thương dân mà ông đã hy sinh cả tính mạng của mình để tránh cho Vua khỏi mang tiếng ác là giết Công thần, giữ cho triều đình non trẻ ổn định, người dân được sống trong hòa bình.
Ngày 26 tháng 2 năm Kỷ Dậu (1429), trái tim yêu nước, thương dân, hy sinh tất cả vì dân của người Anh hùng đã chìm sâu dưới dòng sông Lô. Nhưng danh tiếng của đấng vĩ nhân cùng lòng trung quân, ái quốc, thương dân của ông thì lại bay vút lên trời cao, trở thành ngôi sao sáng, vĩnh hằng trên bầu trời nước Việt!
Kính phục, yêu quý, cùng xót thương người Anh hùng, nhân dân trang Sơn Đông xưa đã lập đền thờ Ngài và suốt gần 600 năm qua, hương khói không lúc nào dứt.
Hoàng Trường Kỳ