Cách đây 70 năm, chàng lính trẻ Trịnh Văn Đình cùng các đồng đội thuộc Sư đoàn 308 - Sư đoàn Bộ binh chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, trực tiếp chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược giành thắng lợi vang dội. Chiến tranh đã lùi xa, song những ký ức về một thời khó khăn, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc vẫn vẹn nguyên trong ký ức của ông Đình.
Ông Trịnh Văn Đình kể về những ký ức hào hùng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa. Ảnh: Trà Hương
Ông Trịnh Văn Đình sinh năm 1929, quê ở thôn Bồng Mạc, xã Liên Mạc, huyện Mê Linh (Hà Nội). Gia đình ông thuộc tầng lớp bần cố nông, không có ruộng đất, cả nhà phải đi làm mướn, ở đợ, vô cùng khổ cực. Tuổi thơ vất vả giúp ông hiểu rõ nỗi thống khổ, cùng quẫn của dân cày dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, từ đó, nung nấu lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Là con trai duy nhất trong nhà, song khi Tổ quốc lâm nguy, Trịnh Văn Đình tạm gác lại việc nhà, lên đường ra trận. Năm 1948, ông nhập ngũ tại Sư đoàn 308, Đại đoàn quân tiên phong, trực thuộc Quân đoàn 12. Ông cùng các đồng đội tham gia Chiến dịch biên giới Thu - Đông năm 1950, trực tiếp chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch tại cứ điểm Đông Khê, Thất Khê, đường số 4 nhằm phá thế cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông biên giới Việt - Trung, mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ lương thực, vũ khí từ Trung Quốc.
Sau chiến thắng của quân ta trong Chiến dịch biên giới Thu - Đông, năm 1951, ông Đình được kết nạp Đảng. Đối với ông, đây là niềm vinh dự, thiêng liêng và cao quý không gì sánh được. Từ đây, ông mang trên mình trọng trách của người chiến sĩ cộng sản, chiến đấu, hy sinh hết mình vì hòa bình, độc lập dân tộc.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, với vai trò là Trung đội trưởng, ông trực tiếp chỉ huy nhiều trận đánh quan trọng, cùng đồng đội xung phong mở hàng rào dây kẽm gai mở đường cho bộ binh tiến vào đồn Pháp".
Ngày 7/5/1954, bộ đội ta phất cao cờ chiến thắng, tiến vào sở chỉ huy địch, bắt sống tướng De Castries cùng toàn bộ bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm. Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, quân và dân ta đã giành chiến thắng vang dội. Có lẽ, cả cuộc đời ông Đình không bao giờ quên được khoảnh khắc ấy, khi niềm vui chiến thắng hòa chung với niềm tự hào dân tộc, khát vọng tự do, hòa bình xen lẫn cả đau thương, mất mát khi nhiều đồng đội của ông mãi mãi nằm lại nơi chiến trường.
Trung đội có hơn 30 đồng chí nhưng sau ngày giải phóng chỉ còn lại 7 người. Suốt 70 năm qua, trên đầu giường của ông Đình luôn treo bức ảnh đen trắng ông chụp cùng đồng đội. Ông thường đứng lặng hàng giờ trước bức ảnh đã nhòe mờ, đưa đôi bàn tay nhăn nheo dò dẫm trên từng khuôn mặt đồng đội, nhớ về một thời đã xa...
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Đình được cử sang Liên Xô học Trường Sĩ quan Hải quân Nga trong 4 năm. Sau khi về nước, ông công tác tại Bộ Tham mưu, Quân chủng Hải quân Việt Nam và nghỉ hưu năm 1980. Vợ chồng ông Đình sinh được 4 người con, cả 4 người con đều học hành thành đạt, tham gia công tác trên nhiều lĩnh vực.
Ông Đình đã 95 tuổi, song trí tuệ vẫn còn minh mẫn, những câu chuyện từ 70 năm trước được ông thuật lại một cách rõ ràng, mạch lạc như kể lại câu chuyện vừa mới xảy ra ngày hôm qua. Hiện ông đang sống cùng các con, cháu trong căn nhà nhỏ ở tổ dân phố 6, phường Trưng Trắc, thành phố Phúc Yên.
Cách đây vài năm, ông Đình và vợ có dịp thăm lại chiến trường xưa, gặp lại đồng đội, nước mắt ông trực trào vì xúc động. Bom đạn, lửa khói chiến tranh đã cướp đi nhiều đồng đội, những người ở lại cả đời thương nhớ. Bao nhiêu năm qua, ông Đình vẫn luôn tâm niệm bản thân phải sống thật đàng hoàng, tử tế, làm việc có ích cho dân, cho nước để những đồng đội được "ngậm cười" nơi chín suối.
Ông thường kể lại những câu chuyện thời chiến để giáo dục con, cháu về tình yêu Tổ quốc thiêng liêng, niềm tự hào dân tộc, ý chí phấn đấu, vươn lên trong học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội, góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày một giàu mạnh, hùng cường.
Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường Trưng Trắc Vũ Tiến Lực cho biết: “Ông Trịnh Văn Đình là tấm gương sáng về phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, trong thời chiến luôn sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Trong thời bình, ông luôn gương mẫu, đi đầu trong mọi phong trào phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương; dạy bảo con cháu trở thành người có ích cho xã hội; xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc”.
Bạch Nga