Cách trung tâm thị xã Phúc Yên chưa đầy 6km, nhưng nhiều năm qua, hơn 300 hộ dân sống ở phường Đồng Xuân luôn “khát” nước sạch sinh hoạt. Để có nước sạch sử dụng, nhiều hộ dân đã tìm đủ mọi cách như hứng nước mưa, gọi thợ về khoan giếng, rắc muối và rắc vôi bột khử sắt... Thế nhưng, tất cả mọi phương án đều không có kết quả và người dân vẫn phải “nhắm mắt” sử dụng nguồn nước ngầm nhiễm bẩn, với nguy cơ gây bệnh rất cao.

Nước giếng dùng trong sinh hoạt hàng ngày của các hộ dân tổ dân phố 6, Đồng Quỳ 1 và Đồng Quỳ 2 phải qua công đoạn lắng lọc mất nhiều thời gian.
Dẫn chúng tôi đi khảo sát thực trạng sử dụng nước sinh hoạt của người dân, ông Lê Minh Đắc, Bí thư chi bộ Tổ dân phố Đồng Quỳ 2 cho biết, nhiều năm nay, người dân nơi đây phải sử dụng nguồn nước nhiễm sắt và kim loại để sinh hoạt, một số hộ dân có giếng bị nhiễm sắt nặng thì phải đi chở nước máy ở nhà người quen hoặc phải mua từ các nơi khác về sử dụng. Để có đủ nước sử dụng trong những ngày nắng nóng, người dân phải chắt chiu từng giọt. Mọi sinh hoạt như tắm, giặt đều phải sử dụng nước bị nhiễm phèn bởi chi phí mua nước sạch quá cao, trung bình mỗi tháng có hộ phải bỏ ra tới vài trăm ngàn đồng mua nước sạch.
3 trong số 10 tổ dân phố của phường Đồng Xuân bị ô nhiễm nguồn nước ngầm phải kể đến tổ dân phố 6, tổ dân phố Đồng Quỳ 1 và Đồng Quỳ 2. Phần lớn người dân ở 3 tổ dân phố này vẫn phải chịu cảnh thiếu nước sạch sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, họ đang phải sử dụng nước ngầm từ các giếng đào và giếng khoan bơm tay. Tuy nhiên, chất lượng các nguồn nước tại đây hiện rất xấu. Nhiều năm nay, người dân nơi đây luôn mong muốn có được nguồn nước sạch để sử dụng. Được biết nguyên nhân chủ yếu để xảy ra tình trạng “khát” nước sạch ở một số tổ dân phố là do việc cấp nước chưa theo kịp tốc độ phát triển đô thị ở các phường mới. Trong khi đó, dân số nội thị tiếp tục tăng nhanh khiến nhu cầu sử dụng nước liên tục tăng cao.
Đưa chúng tôi đến thăm một số giếng nước nổi váng sắt và có mùi tanh, hôi, ông Nguyễn Minh Đức, Tổ trưởng Tổ dân phố Đồng Quỳ 2 bức xúc: “Chúng tôi chờ nước sạch gần 10 năm nay rồi. Vùng này có 160 hộ dân thì 100% số hộ đang sử dụng nguồn nước ô nhiễm ngấm từ mạch nước ngầm của Sông Đại Lãn thuộc một nhánh của Sông Lô. Các hộ gia đình đã tự xây bể lọc cát, song cứ trung bình 1 tháng phải xúc và chà rửa váng sắt trong bể cát sỏi 1 lần nhưng cũng không dám dùng để nấu ăn”.
Trong tổng diện tích đất ở và đất vườn của gia đình rộng 2.400m2 và trong vòng 8 năm gần đây, gia đình ông Đức đã phải đào tới 4 cái giếng sâu từ 8-12m, nhưng cái nào cũng đầy váng sắt. Gia đình ông phải mua máy lọc nước Sunhua về lọc để dùng làm nước ăn. Cách nhà ông Đức vài trăm mét là nhà anh Lê Minh Đắc hiện cũng đang sử dụng nguồn nước ngấm trực tiếp từ đầm Thăm Hẩy, rộng 4.000m2. Đây được coi như là một chiếc ao tù chứa nước thải sinh hoạt của khu dân cư từ nhiều năm lưu cữu. Tuy nhiên, để có nước nước sinh hoạt thì các hộ gia đình vẫn phải sử dụng biện pháp lọc thô sơ qua bể cát và than củi. Riêng nước dùng trong ăn uống hàng ngày, phải qua công đoạn lắng lọc mất nhiều thời gian.
Cùng với người dân Tổ dân phố Đồng Quỳ 2, rất nhiều năm nay, người dân Tổ dân phố Đồng Quỳ 1 lại sử dụng nguồn nước sinh hoạt ngấm từ hệ thống thủy lợi nội đồng. Tại đây, có tuyến kênh dẫn nước từ hồ Đại Lải về các xứ đồng trong thôn để phục vụ sản xuất lúa nên mỗi khi vào vụ sản xuất chất lượng nước nơi đây đã xấu lại càng xấu thêm do ô nhiễm.
Ông Đào Đức Mạnh - Tổ dân phố Đồng Quỳ 1 cho biết: “Dân ở đây ai cũng mong có nước máy sử dụng. Nhà ở gần kênh nên nước sinh hoạt lâu nay gia đình tôi chỉ dùng từ mạch nước ngầm phục vụ sản xuất nông nghiệp ngấm xuống lòng giếng. Vào mùa mưa lũ, nước kênh mương nhiều nhưng rất đục, còn vào tháng nắng thì lại hạn nặng. Cứ vào mùa hè, trung bình khoảng 10 ngày, Tổ trưởng Tổ dân phố Đồng Quỳ 1 lại phải đề nghị chính quyền địa phương phối hợp với Công ty Thủy lợi Phúc Yên cho tháo nước từ hồ Đại Lải về đồng để lấy mạch nước ngầm dùng làm nước sinh hoạt (kể cả khi chưa đến thời vụ sản xuất). Nhưng ngay khi có mạch nước ngấm thì giếng lại nổi váng, nước có màu vàng đục. Vào những thời điểm đó, muốn có nước sử dụng thì người dân nơi đây phải rắc vôi bột và muối, sau vài hôm thì sẽ lắng xuống. Do vậy, nước bơm lên chỉ sử dụng cho việc tắm giặt chứ để nấu ăn thì phải lắng lọc lại. Còn nước uống thì bà con phải mua bằng các bình lọc 18-20 lít. Nếu ở đây có nước máy sử dụng thì người dân chúng tôi vui mừng lắm”.
Cũng theo một số hộ dân cho biết, những năm mùa mưa kéo dài thì người dân cũng tranh thủ dự trữ một vài bể nước dùng trong nấu ăn, uống. Khổ nhất là vào những năm nắng hạn kéo dài thì nước mưa dự trữ để uống và nấu ăn sẽ bị thiếu hụt. Những hộ nào có điều kiện thì mua nước lọc đóng chai về dùng. Riêng những hộ có điều kiện kinh tế khó khăn thì phải sang nhà người quen gần đó (khu vực có nước máy) để xin nước về dùng trong lúc chờ mùa mưa tới.
Ông Phạm Công Đoàn - Tổ trưởng Tổ dân phố 6 cho biết: Riêng tổ 6 có 138 hộ dân thì có trên 50 hộ đã được sử dụng nước sạch của Công ty Cổ phần Cấp thoát nước số 2 Vĩnh Phúc. Tại đây đường trục chính dẫn nước đã vào đến tận đầu thôn, chỉ còn đường dẫn nhánh nhỏ đến từng hộ là chưa được lắp đặt. Để có nước sạch sử dụng, một số hộ dân trong tổ 6 do ở gần đường trục chính, có điều kiện kinh tế khá giả nên họ đã tự bỏ kinh phí lắp đặt đường ống dẫn nước vào nhà. Còn lại khoảng 80 hộ nằm xa đường trục chính vẫn phải sử dụng nước giếng đào đang bị ô nhiễm nặng.
Song, khó khăn nhất hiện nay đối với các hộ dân ở tổ 6 đó là vấn đề đào đường ống dẫn nước về tận nhà từng hộ dân. Do quá trình xây dựng nông thôn mới, nên toàn bộ các tuyến đường giao thông trong dân đều đã được bê tông hóa, nên việc thi công đào đường ống rất khó khăn và tốn kém. Trong khi đó, các hộ dân lại không có kinh phí để đào bới và lắp đặt. Nơi đây, đang từng ngày chờ có tuyến nước máy kéo về để dân được sử dụng nước sạch. Cách đây 1 năm, hơn 300 hộ dân trên địa bàn phường bức xúc về nhu cầu nước sinh hoạt đã làm đơn xin Công ty Cổ phần Cấp thoát nước số 2 Vĩnh Phúc xem xét đấu nối tuyến nước từ Tổ dân phố Đồng Quỳ 1, Đồng Quỳ 2 và Tổ dân phố 6 để dân có nước sạch sử dụng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có kết quả.
Kinh phí lắp đặt lớn, người dân và chính quyền địa phương không thể khắc phục, nhưng cũng không thể để hơn 300 hộ dân ở phường Đồng Xuân phải sử dụng nguồn nước ô nhiễm để sinh hoạt hàng ngày. Bà con và chính quyền nơi đây mong muốn được các cấp, các ngành liên quan, đặc biệt là Công ty Cổ phần Cấp thoát nước số 2 Vĩnh Phúc sớm hỗ trợ địa phương lắp đặt và đấu nối công trình nước, để có nguồn nước đảm bảo an toàn vệ sinh, nhằm giải quyết nhu cầu bức xúc về nguồn nước sinh hoạt cho người dân nơi đây.
Bài, ảnh Nguyễn Hoàn