Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thông qua đã thể hiện tinh thần đổi mới trên rất nhiều phương diện và qua đó, thể hiện được ý Đảng, lòng dân, có sự đồng thuận cũng như nguyện vọng của đại đa số các tầng lớp nhân dân, trong đó, có các quy định mới về đất đai, quyền sở hữu, các phương thức về quản lý, sử dụng làm cơ sở pháp lý cho việc hoạch định, đổi mới các cơ chế, chính sách về đất đai.
Trong quá trình sửa đổi, bổ sung các nội dung liên qua đến việc quy định trong Hiến pháp về lĩnh vực đất đai luôn là vấn đề “nóng” thu hút sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức, đơn vị cũng như ngành chức năng. Rất nhiều ý kiến trái chiều cũng được đưa ra và bàn thảo và nghiên cứu kỹ lưỡng tạo thành kênh phản biện để qua đó, tìm ra nhiều yếu tố tích cực trong dư luận xã hội. Tâm huyết, ý chí, trí tuệ, nguyện vọng, sự đồng thuận của nhân dân đã góp phần tích cực để các quy định về đất đai trong Hiến pháp sửa đổi 2013 được sửa đổi, bổ sung chặt chẽ hơn thể hiện quan điểm mới và đúng đắn hơn, khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Đồng thời khẳng định đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước. Luật Đất đai năm 2013 là đạo luật lớn với 14 chương, 212 điều quy định đầy đủ, toàn diện về quản lý và sử dụng đất đai có hiệu lực từ ngày 1/7/2014 đã cụ thể thành công các quy định về đất đai trong Hiến pháp.
Tất cả các nội dung liên quan về đất đai được kế thừa và sửa đổi, bổ sung, đổi mới như các quy định về tài nguyên đất đai được quản lý theo pháp luật; tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; người sử dụng đất được chuyển quyền sử dụng đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật… Hiến pháp (Điều 53 và 54 chương III Kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường) quy định rõ quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ, nhà nước thu hồi đất của tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Theo đó, việc thu hồi đất được quy định phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật. Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, bão lũ...
Về sở hữu đất đai, Điều 53, 54 Hiến pháp và Luật Đất đai (sửa đổi) 2013 quy định cụ thể đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước thực hiện quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định hạn mức giao đất nông nghiệp, hạn mức giao đất ở, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở và hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định thời hạn sử dụng; trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua các hình thức giao đất, cho thuê đất và công nhận quyền sử dụng đất; quyết định thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Đồng thời, Nhà nước cũng là chủ thể trong việc quyết định trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai…
Chương XI Luật Đất đai (sửa đổi) 2013 quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, trong đó quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của từng đối tượng sử dụng đất phù hợp với hình thức giao đất, thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất và quy định các điều kiện khi người sử dụng đất thực hiện các quyền của người sử dụng đất. Người sử dụng đất có các quyền chung như: được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước phục vụ việc bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp; được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp; được Nhà nước bảo hộ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của mình; được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
Cụ thể, quy định của Hiến pháp về thu hồi đất, Luật Đất đai quy định chặt chẽ các trường hợp thu hồi đất tại Điều 61 và Điều 62. Luật quy định rõ các trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh như: làm nơi đóng quân, trụ sở làm việc; xây dựng căn cứ quân sự; xây dựng công trình phòng thủ quốc gia, trận địa và công trình đặc biệt về quốc phòng, an ninh; xây dựng ga, cảng quân sự; xây dựng công trình công nghiệp, khoa học và công nghệ, văn hóa, thể thao phục vụ trực tiếp cho quốc phòng, an ninh; xây dựng kho tàng của lực lượng vũ trang nhân dân; làm trường bắn, thao trường, bãi thử vũ khí, bãi hủy vũ khí; xây dựng cơ sở đào tạo, trung tâm huấn luyện, bệnh viện, nhà an dưỡng của lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng nhà công vụ của lực lượng vũ trang nhân dân; xây dựng cơ sở giam giữ, cơ sở giáo dục do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý. Cũng với quy định về thu hồi đất, Luật Đất đai có các quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (Điều 75) cho người có đất thu hồi; điều kiện được bồi thường về đất, các khoản hỗ trợ ổn định đời sống, tạo việc làm, tái định cư và một số khoản hỗ trợ khác cũng như các quy định cụ thể về giá đất, cơ quan thẩm định giá và những nghĩa vụ, chính sách tài chính liên quan khác. Có thể nói, việc bám sát các nội dung sửa đổi về đất đai trong Hiến pháp, Luật Đất đai (sửa đổi) 2013 đã cụ thể thành công các quy định về đất đai trong Hiến pháp.
Đ.Q.G