Đến với Điện Biên Phủ, chúng tôi may mắn được gặp và nghe chuyện của những chiến sĩ Điện Biên năm xưa. Họ không chỉ anh dũng cầm súng đánh đuổi quân Pháp xâm lược mà còn là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận kinh tế sau khi ngừng tiếng súng. Để rồi hôm nay, trên chiến trường Điện Biên Phủ năm xưa đã hiện lên một thành phố trẻ đầy sức sống nơi cực Tây Tổ quốc.
Hồi sinh những vùng đất chết
Từ trung tâm thành phố Điện Biên Phủ, chưa đầy 20 phút đi xe máy xuôi theo hướng cửa khẩu Tây Trang, chúng tôi tìm đến chiến trường Hồng Cúm năm xưa (nay thuộc xã Thanh An và xã Thanh Yên, huyện Điện Biên). Chiến tranh đã lùi xa 70 năm, bao trùm lên chiến trường ác liệt ngày ấy giờ là những cánh đồng lúa, ngô xanh mướt, những ngôi nhà khang trang, mái ngói đỏ tươi.
Dù đã ở tuổi xưa nay hiếm, mái tóc bạc trắng như cước, nhưng ông Trần Văn Đáp, cựu chiến sĩ Điện Biên, công nhân Nông trường Quốc doanh Điện Biên vẫn nhớ như in những năm tháng hào hùng đó. Ông Đáp bồi hồi nhớ lại: “Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, Hồng Cúm cùng với Him Lam, Đồi A1 là ba trung tâm kiên cố nhất, mạnh nhất của giặc Pháp. Hồng Cúm là cứ điểm cuối cùng của Pháp bị quân ta tiêu diệt trong đêm 7/5/1954, kết thúc Chiến dịch Điện Biên Phủ với thắng lợi vang dội của quân và dân ta.
Cựu TNXP Đỗ Vũ Xô (tóc bạc) cùng đồng đội thăm lại đập tràn bê tông chắn nước ở đầu nguồn.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đơn vị ông Đáp được lệnh chuyển về Thanh Hóa nhận nhiệm vụ mới. Đến năm 1958, đơn vị ông nhận nhiệm vụ trở lại Điện Biên. Sau những ngày hành quân vất vả, toàn đơn vị đã có mặt tại Điện Biên và bắt tay vào việc xây dựng doanh trại, đồng thời tập trung phát hoang để kịp thời sản xuất vụ mùa và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho việc thành lập nông trường.
Ông Đáp tiếp lời: Lúc ấy, Hồng Cúm chỉ có vài mái nhà gianh, tranh tre nứa lá của bà con dân tộc Thái sống thưa thớt. Đời sống người dân thiếu thốn đủ đường, chủ yếu tự cung, tự cấp, săn bắt, hái lượm trên rừng. Khu đất mà giặc Pháp xây dựng trận địa Hồng Cúm rộng lớn, nhưng sau chiến dịch chỉ còn lại chồng chất dây thép gai, bom mìn, vũ khí… như một vùng đất chết.
Có một sự kiện đặc biệt mà ông nhớ mãi, đó là năm 1960, ông Đáp và đồng đội làm lễ “hạ sao”, chính thức rời quân ngũ, trở thành công nhân nông trường. Những người lính thuộc các đại đội được bố trí vào các đội sản xuất. Ông Đáp được biên chế về đội C2, tham gia sản xuất tại Hồng Cúm, xã Thanh Yên.
Cùng với các đội sản xuất khác, Đội C2 đã tích cực khai hoang đất, trồng cà phê, cây lương thực và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, đáp ứng nhu cầu lương thực tại chỗ cho cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên nông trường.
Ngày 8/5/1958, Nông trường Quân đội Điện Biên được thành lập, trực thuộc Cục Nông - Binh, Bộ Quốc phòng, gồm 1.954 cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 176. Tổ chức nông trường khi đó gồm nông trường bộ, các phòng ban trực thuộc và 23 đơn vị sản xuất, mỗi đơn vị sản xuất là 1 đại đội (gọi là C), thực hiện nhiệm vụ trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản, làm giao thông, thủy lợi, cơ khí, máy kéo vận tải, sản xuất vật liệu kiến thiết cơ bản...
Các C được bố trí xen kẽ với các xã toàn vùng lòng chảo Điện Biên và khu vực Mường Ảng, Tuần Giáo. Ngày 22/12/1960, Nông trường Quân đội Điện Biên chuyển thành Nông trường Quốc doanh Điện Biên, trực thuộc Bộ Nông trường. Đơn vị được giao nhiệm vụ tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích đất sản xuất nông nghiệp để sản xuất lương thực, thực phẩm và phát triển cây cà phê theo phương châm sản xuất trước, quy hoạch sau; trồng trọt trước, xây dựng sau; lấy cây ngắn nuôi cây dài, trồng cây lâu năm và phát triển các ngành nghề khác. Đồng thời hướng dẫn đồng bào các dân tộc phát triển sản xuất và sẵn sàng chiến đấu khi có chiến sự xảy ra.
Vẹn nguyên tinh thần xung kích
Năm 1963, chàng thanh niên Đỗ Vũ Xô, quê ở huyện Thanh Trì, Hà Nội, hiện trú tại tổ dân phố 1, xã Thanh Minh, thành phố Điện Biên Phủ, khi ấy mới 20 tuổi, là Phó Bí thư Đoàn Hợp tác xã đã tình nguyện cùng 300 đội viên là người Hà Nội lên Điện Biên xây dựng Công trường Đại thủy nông Nậm Rốm.
Nay dù tuổi đã cao, nhưng khi được chúng tôi ngỏ lời, ông Xô không ngần ngại đi cùng chúng tôi về thăm lại công trình đập tràn bê tông chắn nước ở đầu nguồn. Khi đặt chân đến đó, bao ký ức tuổi hai mươi đầy gian khó, vất vả lại ùa về khiến ông rưng rưng xúc động.
Cựu TNXP Đỗ Vũ Xô và đồng đội ôn lại những kỷ niệm hào hùng năm xưa.
Ông Xô nói: “Trong suốt 7 năm (1963 - 1969), đoàn thanh niên xung phong (TNXP) xây dựng được đập tràn bê tông chắn nước. Kỳ vĩ nhất là đập đầu mối công trình dâng nước có dạng thủy lực tràn Ofixerop, xây bằng đá bọc bê tông, có chiều cao hơn 9m nằm ở cửa ngõ Him Lam của thành phố Điện Biên Phủ. Từ đập đầu mối này, nước sẽ được chia đều sang hai tuyến kênh tả, hữu làm nhiệm vụ “dẫn thủy, nhập điền”, cung cấp nước tưới cho toàn bộ cánh đồng Mường Thanh.
Đang say sưa kể, ông Xô bỗng chững lại, giọng trầm xuống: “Tôi vẫn nhớ như in lời dặn dò tại lễ phát động thi đua của ông Hoàng Tinh, khi ấy là Trưởng Ban Chỉ huy công trường phụ trách chung: “Chúng ta khó khăn 1 thì phải khắc phục 10 và biện pháp là 20”. Với khẩu hiệu “ba bù” (bù mưa, bù ốm, bù phòng không), lực lượng TNXP tham gia xây dựng công trình đã tăng ca, đẩy giờ làm việc từ 10 lên 12 giờ lao động/ngày, như để khẳng định sức trẻ, sự đoàn kết, lòng quả cảm, nhiệt huyết và thái độ hăng say làm việc của thế hệ TNXP thời bấy giờ.
Cầm trên tay cuốn hồi ký, đôi mắt ngấn lệ, ông Xô kể tiếp: Ngày 13/3/1966, toàn đơn vị tràn ngập trong đau thương, mất mát. Bom Mỹ trút xuống phá hủy công trình đập đầu mối. 5 đồng đội của tôi đã hy sinh khi đang làm nhiệm vụ. Có người bị những mảnh bom lia, người bị sức ép bởi bom đạn. Đau đớn nhất là khi máy bay Mỹ bất ngờ ập đến, Đội trưởng Nông Văn Mận đứng trên miệng hầm quan sát chỉ kịp hét lên: “Anh em xuống hầm!”. Sau tiếng nổ chát chúa, thân thể anh bị bom xé nát hòa lẫn đất. Nói đến đây, ông nghẹn ngào: “Thương lắm! Đó là thời khắc tôi không thể nào quên!".
Công trường Đại thủy nông Nậm Rốm được khởi công xây dựng năm 1963, đến năm 1969 thì hoàn thành. Hơn 2.000 cán bộ, đội viên, trong đó có hơn 800 thanh niên tình nguyện Tháng 8 Thủ đô và thanh niên nhiều tỉnh miền xuôi như Hưng Yên, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh, Nam Định, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa… đã xung phong lên Điện Biên góp công, góp sức. Họ mang sứ mệnh và trọng trách cao cả là phải hoàn thành công trình Đại thủy nông Nậm Rốm trong thời gian sớm nhất để tạo nên “mạch sống” cho Điện Biên, sớm thoát khỏi tình trạng thiếu đói, giáp hạt…
70 năm đã trôi qua, nhưng tinh thần, ý chí quả cảm của những chiến sĩ Điện Biên năm xưa và các cựu TNXP vẫn như “mạch nguồn” chảy mãi, tiếp thêm lòng yêu nước và tự hào dân tộc cho các thế hệ cùng chung sức bảo vệ và xây dựng mảnh đất Điện Biên ngày càng giàu đẹp, phồn vinh; xứng đáng với tầm vóc chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Bài, ảnh: Huyền Linh - Sầm Phúc