Xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (CN - TTCN) có vai trò quan trọng trong giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống của người dân nông thôn, những năm gần đây, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách đẩy mạnh phát triển CN - TTCN, nhất là phát triển TTCN tại các vùng nông thôn có làng nghề truyền thống. Từ đó, tạo việc làm mới, tăng thu nhập cho người dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hiệu quả.
Chú trọng đổi mới công nghệ, làng nghề tái chế vải sợi bông tại xã Yên Đồng (Yên Lạc) ngày một phát triển, đem lại nguồn lợi kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân. Ảnh: Chu Kiều
Hiệu quả chính sách phát triển TTCN
Những năm gần đây, tỉnh đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo nghề, xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật; chuyển giao công nghệ và ứng dụng máy móc tiên tiến, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất CN - TTCN; xây dựng các mô hình thí điểm về áp dụng sản xuất sạch hơn, xây dựng hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường cho cơ sở công nghiệp nông thôn.
Ban hành các chính sách hỗ trợ thu hồi đất đai, xây dựng hạ tầng, làm đường giao thông đến hàng rào các khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) tại các địa phương. Điển hình là việc phát triển các KCN, CCN, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhất là các cơ sở sản xuất TTCN, các hộ sản xuất, kinh doanh nghề truyền thống thuê mặt bằng tập kết hàng hóa, tổ chức sản xuất, giải quyết việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế của địa phương và của tỉnh.
Giai đoạn 2019 - 2023, tỉnh ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ chủ đầu tư xây dựng, kinh doanh hạ tầng CCN tại các địa phương như hỗ trợ 100% kinh phí lập, thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; lập dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật; rà, phá bom, mìn; hỗ trợ 700 triệu đồng/ha thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng, tối đa không quá 20 tỷ đồng/CCN; hỗ trợ 30% kinh phí xây dựng hệ thống điện trong hàng rào CCN; hỗ trợ kinh phí xây dựng nhà điều hành, quản lý CCN...
Nhờ đó, các CCN sớm có mặt bằng đi vào hoạt động không chỉ thu hút các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình sản xuất, kinh doanh mà còn thu hút một số dự án lớn.
Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã thành lập và giao chủ đầu tư 16 CCN với tổng diện tích 424 ha, thu hút 550 cơ sở sản xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm cho hơn 12.000 lao động, đóng góp tích cực vào tăng trưởng GRDP của tỉnh.
Bên cạnh đó, tỉnh quan tâm duy trì phát triển các làng nghề. Toàn tỉnh hiện có 25 làng nghề, trong đó có 19 làng nghề truyền thống và 6 làng nghề mới. Các làng nghề hiện thu hút hơn 500 cơ sở sản xuất TTCN hoạt động, tạo việc làm cho hơn 55.000 lao động nông thôn với mức thu nhập bình quân 5 - 6 triệu đồng/người/tháng.
Với cơ chế, chính sách phù hợp trong lĩnh vực phát triển ngành nghề nông thôn, làng nghề truyền thống ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng.
Đến nay, các làng nghề đều phát triển mạnh và đã khẳng định được chỗ đứng trên thị trường với các sản phẩm chất lượng cao, có giá trị như rèn Lý Nhân; rắn Vĩnh Sơn; chế tác đá mỹ nghệ Hải Lựu; mộc Thanh Lãng, Bích Chu, Thủ Độ; mây tre đan Cao Phong, Triệu Đề; làm hạt nhựa Tam Hồng, Đồng Văn; chợ sắt Tề Lỗ...
Huyện Yên Lạc - địa phương có số CCN nhiều nhất tỉnh, hiện nay đã hình thành 6 CCN với tổng diện tích gần 110 ha, trong đó 3/6 CCN đạt tỷ lệ lấp đầy 100%.
Điển hình như CCN Yên Đồng có tổng diện tích 3,7 ha được thành lập năm 2009, hiện thu hút hơn 50 hộ gia đình đầu tư sản xuất TTCN; CCN Làng nghề - chợ sắt Tề Lỗ có tổng diện tích hơn 25 ha, thành lập từ năm 2009, đến nay thu hút hơn 320 hộ gia đình đầu tư sản xuất TTCN.
Phát triển CN - TTCN theo chiều sâu
Quy hoạch tỉnh Vĩnh Phúc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đề ra mục tiêu: Tốc độ tăng trưởng GRDP ngành công nghiệp bình quân đạt 13,5 - 14%/năm; năng suất lao động tăng bình quân 8,3%/năm. Đến năm 2030, GRPD ngành công nghiệp đạt 120 nghìn tỷ đồng, chiếm 54,2% GRDP toàn tỉnh.
Để đạt mục tiêu đề ra, song song với phát triển công nghiệp, tỉnh quan tâm duy trì, phát triển TTCN tại các làng nghề truyền thống, làng nghề mới và vùng nông thôn.
UBND tỉnh đã phê duyệt Quy hoạch phát triển các ngành nghề TTCN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 với mục tiêu đến năm 2030, toàn tỉnh sẽ hình thành 24 cụm TTCN, làng nghề truyền thống.
Theo đó, tỉnh ban hành chính sách hỗ trợ, khuyến khích các làng nghề phát triển như hỗ trợ máy móc, tập huấn kỹ thuật, đào tạo nhân lực ngành nghề nông thôn...
Định hướng phát triển CN - TTCN của tỉnh theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, gắn với mục tiêu tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
Trên cơ sở các ngành nghề CN - TTCN đã hình thành, tỉnh đẩy mạnh liên kết hợp tác giữa các địa phương trong vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, xây dựng tỉnh trở thành 1 trong những trung tâm công nghiệp lớn nhất của cả nước về công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp điện tử, ô tô - xe máy…
Không gian phát triển CN - TTCN được phân bố trên khắp các huyện, thành phố của tỉnh. Phát triển công nghiệp chia thành 2 vùng gồm Vùng công nghiệp động lực phát triển công nghiệp tại các huyện, thành phố Phúc Yên, Bình Xuyên, Yên Lạc, Vĩnh Tường, bám dọc theo trục đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai và trục đường Vành đai 4 của tỉnh.
Vùng công nghiệp phụ trợ phát triển công nghiệp tại các huyện Tam Đảo, Tam Dương, Lập Thạch và Sông Lô, bám dọc theo trục đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai, trục đường Vành đai 4 của tỉnh và đường tỉnh.
Đến năm 2030, phát triển mới 31 CCN, nâng tổng số CCN trên địa bàn tỉnh lên 47 cụm. Đến năm 2050, toàn tỉnh có 51 CCN, thu hút thêm hàng trăm nghìn lao động, góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đóng góp hiệu quả vào tăng trưởng GRDP của tỉnh.
Xuân Nguyễn