Những năm gần đây, Vĩnh Phúc là một trong những địa phương trên cả nước có mức sinh chênh lệch giữa các vùng, đối tượng ngày càng lớn. Để nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực, việc điều chỉnh mức sinh là rất cần thiết. Vì vậy, các cấp, ngành của tỉnh đã đưa ra nhiều giải pháp quan trọng, hiệu quả đối với từng địa phương.
Cán bộ dân số xã Quang Yên, huyện Sông Lô tuyên truyền tới người dân về chính sách DS-KHHGĐ. Ảnh: Kim Ly
Theo số liệu từ Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh,toàn tỉnh hiện có hơn 1,2 triệu người, năm 2022 có 14.951 trẻ em được sinh ra, giảm 1.069 trẻ so với cùng kỳ năm 2021; tỷ suất sinh thô năm 2022 là 12,5%o, giảm 1,0%o so với năm 2021, vượt chỉ tiêu kế hoạch.
Trong giai đoạn 2009-2019, dân số tỉnh tăng thêm gần 160 nghìn người, tỷ lệ tăng dân số trung bình là 1,41%/năm (cao hơn so với trung bình cả nước); nhóm dân số từ 15-19 tuổi chiếm 62,2% tổng dân số toàn tỉnh. Mức sinh ở tỉnh hiện nay có sự chênh lệch đáng kể giữa các huyện, thành phố và chia thành 2 nhóm: Nhóm các địa phương có tỷ suất sinh thô tăng hoặc ổn định ở mức cao và nhóm các địa phương có mức sinh thấp, liên tục giảm.
Trong đó, nhóm các huyện có tỷ suất sinh thô tăng hoặc ổn định ở mức cao như Tam Dương (18,6%), Lập Thạch (17,8%), Sông Lô (17,7%), Yên Lạc (18,6%), Vĩnh Tường (16,3%), Tam Đảo (16,5%); nhóm các huyện, thành phố có mức sinh thấp, liên tục giảm là Vĩnh Yên (12,9%), Phúc Yên (13,4%), Bình Xuyên (13,1%).
Các số liệu trên cho thấy, mức sinh ở khu vực nông thôn đang cao hơn mức sinh ở khu vực thành thị, xu hướng mức sinh tăng cao trở lại sau khi đạt mức thay thế xuất hiện ngày càng nhiều. Theo đó, mức sinh tăng cao hay giảm thấp đều ảnh hưởng đến quy mô dân số, chất lượng dân số và sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.
Mức sinh cao sẽ ảnh hưởng đến việc cải thiện đời sống nhân dân, phát triển thể lực giống nòi. Mức sinh thấp, duy trì trong một thời gian dài sẽ dẫn đến ít trẻ em được sinh ra, dân số già hóa nhanh, gây suy giảm dân số, thiếu hụt nguồn nhân lực. Do đó, cần duy trì mức sinh thay thế, giữ vững mức sinh đồng đều giữa các vùng, khu vực.
Để duy trì mức sinh thay thế, tỉnh đã và đang thực hiện nhiều giải pháp hữu hiệu, phù hợp với từng địa phương, đơn vị. UBND tỉnh đã ban hành kế hoạch “Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”; Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh ban hành kế hoạch “Điều chỉnh mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc năm 2023”.
Theo đó, mục tiêu chung được đặt ra là tiếp tục thực hiện điều chỉnh giảm sinh hợp lý, tập trung giảm sinh tại các huyện có mức sinh cao, thực hiện đạt và duy trì bền vững mức sinh thay thế tại các huyện, thành phố còn lại, góp phần cho sự phát triển nhanh, bền vững của tỉnh.
Phấn đấu đến năm 2030, toàn tỉnh duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,2 con); quy mô dân số đạt 1,4 triệu người; tỷ số giới tính khi sinh giảm còn 109 bé trai/100 bé gái; tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỷ lệ người trong độ tuổi lao động là 67%.
Đồng thời, giảm tối thiểu 10% tổng tỷ suất sinh ở các huyện có mức sinh cao; tăng tối thiểu 5% tổng tỷ suất sinh ở các huyện, thành phố có mức sinh thấp.
Để đạt được mục tiêu trên, các cấp, ngành chức năng đẩy mạnh tuyên truyền, thực hiện hiệu quả cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có hai con; tập trung vận động sinh ít con ở nơi có mức sinh cao, sinh đủ hai con ở nơi có mức sinh thấp và duy trì kết quả ở nơi đã đạt mức sinh thay thế.
Nêu cao vai trò của đảng viên; các tổ chức Đảng, cơ quan, đơn vị ban hành quy định đảm bảo sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên thực hiện chuẩn mực trong việc sinh đủ hai con, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc; gắn kết quả thực hiện các mục tiêu điều chỉnh mức sinh được giao cho các địa phương, đơn vị với đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị, nhất là những người đứng đầu.
Xây dựng hệ thống thông điệp truyền thông, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, tư vấn trực tiếp nội dung phù hợp đặc thù tình hình thực tế của từng địa phương và cho từng nhóm đối tượng như tổ chức các hoạt động truyền thông thường xuyên, truyền thông trực tiếp và truyền thông lưu động...về các biện pháp tránh thai hiện đại và chính sách DS-KHHGĐ đến các nhóm đối tượng thuộc địa bàn có mức sinh cao, mức sinh không ổn định, địa bàn có nhiều đối tượng khó tiếp cận.
Tập huấn, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác dân số các cấp về thực trạng mức sinh, giải pháp góp phần đảm bảo mức sinh hợp lý; tổ chức hội nghị cung cấp thông tin về tình hình công tác dân số nói chung và thực trạng mức sinh của tỉnh, của huyện nói riêng.
Diệu Linh