Với mạng lưới sông, hồ dày đặc, công tác bảo vệ môi trường (BVMT) lưu vực hệ thống sông, đảm bảo an ninh tài nguyên nước có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển KT-XH của tỉnh. Đặc biệt, trước thực trạng nguồn nước tại một số sông, hồ đang bị ô nhiễm, trữ lượng nước dưới đất giảm sút, đòi hỏi bên cạnh việc tập trung các nguồn lực đầu tư của tỉnh, cần có sự vào cuộc tích cực của chính quyền, nhân dân ở các địa phương trong việc khai thác, sử dụng; gìn giữ chất lượng, trữ lượng nguồn nước và BVMT nhằm phát triển bền vững.
Tình trạng xả rác thải ra các sông, kênh vẫn còn tái diễn, gây ô nhiễm môi trường nước. Ảnh: Đức Chung
Hiện, trên địa bàn tỉnh có 5 sông chính chảy qua, gồm sông Hồng, sông Lô, sông Phó Đáy, sông Phan và sông Cà Lồ. Lượng nước hằng năm của các sông rất lớn, đủ cung cấp nước tưới cho 38.200 ha đất canh tác nông nghiệp; được chia làm 2 hệ thống sông chính, gồm hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Phan - Cà Lồ. Chế độ thủy văn của tỉnh phụ thuộc vào chế độ thủy văn của hai hệ thống sông này và là nguồn cung cấp chủ yếu tài nguyên nước mặt của tỉnh.
Ngoài hệ thống sông chính, trên địa bàn tỉnh còn có hệ thống hồ chứa nước, gồm các hồ như Đại Lải, Vân Trục, Xạ Hương, Bò Lạc, Suối Sải, Đầm Vạc, sông Cà Lồ cụt và nhiều hồ lớn nhỏ khác chứa hàng triệu m3 nước, tạo nên nguồn dự trữ nước mặt phong phú, đảm bảo phục vụ tốt cho hoạt động kinh tế và dân sinh.
Những năm gần đây, cùng với quá trình phát triển KT-XH của tỉnh, sự gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa đòi hỏi nhu cầu nước cho sản xuất và dân sinh ngày càng tăng. Kéo theo đó, các hoạt động xả thải ngày càng gia tăng; thực trạng “rác lấn đường”, “rác tràn xuống sông hồ” xuất hiện ở nhiều địa phương trong tỉnh, gây ô nhiễm, ảnh hưởng đến nguồn nước cũng như đời sống, sinh hoạt, sức khỏe của người dân và cảnh quan môi trường.
Để xảy ra tình trạng này, ngoài nguyên nhân một bộ phận người dân thiếu ý thức BVMT, xả rác bừa bãi, còn bắt nguồn từ việc nhiều bãi rác tập trung ở các địa phương đã và đang trong tình trạng quá tải, dẫn tới việc thu gom, tập kết rác thải rất khó khăn.
Nguồn nước thải từ sinh hoạt, sản xuất ở nhiều địa phương không được xử lý đúng quy chuẩn, kỹ thuật đã và đang tác động, gây sức ép ngày càng lớn đến chất lượng nguồn nước các sông, suối và các tầng chứa nước, đặc biệt là các nguồn nước cấp cho mục đích sinh hoạt.
Hầu hết các đoạn sông chảy qua khu vực tập trung đông dân cư và các khu công nghiệp, các làng nghề đều đã và đang bị ô nhiễm ở các mức độ khác nhau. Đặc biệt, mức độ ô nhiễm tăng cao vào mùa khô khi lượng nước chảy vào các con sông giảm.
Theo kết quả quan trắc môi trường trên địa bàn tỉnh trong năm 2022, trong 47 điểm quan trắc chất lượng nước mặt trên lưu vực các sông, suối, thủy vực tĩnh cho thấy, chất lượng nước sông Bến Tre có chất lượng nước kém nhất với 74% số điểm quan trắc có chất lượng trung bình sử dụng cho mục đích tưới tiêu và các mục đích tương đương khác; 21% điểm quan trắc có chất lượng nước tốt sử dụng cho mục đích sinh hoạt, nhưng cần các biện pháp xử lý phù hợp; 5% số điểm quan trắc có chất lượng nước xấu, sử dụng cho mục đích giao thông đường thủy và các mục đích tương đương khác.
Sức chịu tải của phần lớn hệ thống sông trên địa bàn tỉnh đối với các thông số ô nhiễm ngày càng giảm sút. Tính toán hiện trạng và dự báo tương lai, sông Phan - con sông chảy qua thành phố Vĩnh Yên và huyện Bình Xuyên tập trung lượng lớn dân cư có nhiều nguy cơ ô nhiễm khi tại một vài điểm lấy mẫu đã cho thấy nhiều thông số ô nhiễm vượt quá mức chịu tải (Amoni, Nitrate, BOD5, COD, Coliform). Bên cạnh đó, vẫn diễn ra tình trạng ô nhiễm nguồn nước dưới đất với 4 thông số NH4 +, NO2 -, Mn, tổng coliform vượt quy chuẩn cho phép.
Xác định công tác BVMT lưu vực hệ thống sông trên địa bàn tỉnh là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, thường xuyên, cùng với việc ưu tiên, tập trung các nguồn lực đầu tư hạ tầng xử lý rác thải, chất thải cho các địa phương, nhiều giải pháp đã và đang được các ngành chức năng, chính quyền các địa phương đề ra như thu hút, huy động các nguồn lực tài chính từ mọi thành phần trong xã hội, khuyến khích các dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài, các tổ chức tham gia vào việc cung cấp tài chính cho các chương trình, nhiệm vụ, dự án nhằm BVMT và phát triển bền vững tài nguyên nước.
Triển khai cắm mốc hành lang bảo vệ nguồn nước đối với các đoạn sông, suối chảy qua các đô thị, khu dân cư tập trung, khu, cụm công nghiệp, làng nghề; xây dựng và thực hiện các chương trình truyền thông có nội dung và hình thức tuyên truyền thích hợp cho từng nhóm đối tượng trong xã hội nhằm nâng cao nhận thức và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong việc BVMT, đảm bảo an ninh tài nguyên nước.
Yêu cầu các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp phải xử lý chất thải, bảo đảm đạt tiêu chuẩn mới được xả, thải ra môi trường...
Yếu tố tiên quyết hơn cả chính là sự vào cuộc tích cực của chính quyền, nhân dân ở các địa phương trong việc khai thác, sử dụng đi đôi với việc gìn giữ chất lượng, trữ lượng nguồn nước và BVMT.
Lưu Nhung